Saturday, 22 March 2025

THAY ĐỔI - truyện 5 chương ngắn

 



CHƯƠNG 1

Tôi đi trên một con phố. Trên vỉa hè có một hố sâu. Tôi không nhìn thấy và rơi xuống. Tôi chật vật mãi mới thoát ra được. Đó là lỗi của tôi.

CHƯƠNG 2
Tôi lại đi trên con phố đó. Vẫn là cái hố cũ. Tôi lại rơi xuống. Vẫn mất rất lâu để trèo ra ngoài. Nhưng lần này, tôi tự nhủ: Không phải lỗi của mình.

CHƯƠNG 3
Tôi lại bước trên con phố ấy. Tôi nhìn thấy cái hố, nhưng tôi vẫn rơi xuống. Dường như điều này đã trở thành thói quen. Tôi nhận ra, đây là lỗi của tôi. Nhưng ít ra, tôi có thể thoát ra ngay lập tức.

CHƯƠNG 4
Tôi đi trên con phố đó. Tôi nhìn thấy cái hố sâu. Tôi chủ động tránh nó.

CHƯƠNG 5
Tôi chọn đi một con đường khác.

Thursday, 30 September 2021

CỬA TÙNG ĐÔI CÁNH GÀI




Khi chàng dũng sĩ về đến chân núi thì trăng cũng vừa lên. Trăng mười chín soi sáng cảnh núi rừng cô tịch. Ánh trăng nhấp nháy đùa giỡn trên lá câỵ Đêm thu mát lạnh. Cảnh vật hình như không có gì đổi thay sau bảy năm xa cách. Cảnh vật tuy không xa lạ, nhưng cũng không thân mật chào đón người cũ từ phương lạ trở về. Chàng dũng sĩ dừng lại ở chân núi, nhìn lên.

Trước mặt chàng, con đường mòn lên núi đã bị đôi cánh cửa tùng khép chặt. Chàng đưa tay cố đẩỵ Nhưng hai cánh cửa kiên cố vẫn im lìm không lay chuyển dưới sức mạnh của đôi cánh tay chàng. Chàng lấy làm lạ. Ngày xưa chẳng bao giờ sư phụ chàng lại cho đóng chặt cửa lên núi như thế nàỵ Chỉ có một con đường đưa tới am sư phụ mà thôi, nhưng bây giờ lại bị đóng chặt. Hớn hở chàng vỗ tay vào đốc kiếm, phi thân nhảy qua, nhưng chàng không nhảy qua khỏi. Một mãnh lực gì níu lấy thân chàng trở lại, khiến chàng không cất mình lên khỏi hai cánh cửa tùng. Chàng rút gươm định chém rời cánh cửa, nhưng khi chạm tới cánh cửa, lưỡi gươm văng trở lại như vừa chạm vào thép cứng. Chàng chùn tay, đưa lưỡi gươm lên nhìn. Lưỡi thép sáng loáng dưới ánh trăng. Cánh cửa tùng rắn quá, và hình như đã thu nhận thần lực của sư phụ chàng, nên đã đóng kín đường mòn lại một cách hết sức vững chãi. Chàng thở dài cho gươm vào vỏ rồi ngồi phịch xuống tấm đá lớn gần bên, ôm đầu nghĩ ngợi. Bảy năm về trước, chàng còn nhớ rõ khi chàng xuống núi, sư phụ chàng đã lặng lẽ nhìn chàng một hồi lâu, không nói năng gì. Cái nhìn của Người tuy dịu dàng nhưng có lẫn đôi chút xót thương. Chàng đã cúi đầu im lặng trước đôi mắt dịu hiền và cái nhìn bao dung của sư phụ. Hồi lâu Người mới thong thả bảo chàng:

-“Ta không thể giữ con ở mãi bên ta. Thế nào con cũng phải xuống núi để hành đạo, để cứu người và giúp đời. Ta cho rằng con có thể ở lại cùng ta trong một thời gian nữa trước khi con rời ta xuống núi. Nay con đã muốn xuống thì con cứ xuống. Nhưng con ạ, ta mong con nhớ những điều ta dặn khi con đã đi vào cuộc sống đồng sự và lợi hành.” Rồi Người cặn kẽ dặn chàng về những điều chàng nên tránh, và về những điều chàng nên làm. Sau hết, Người từ tốn và dịu dàng để tay trên vai chàng:

– “Con phải nhớ những tiêu chuẩn hành động mà ta đã truyền thọ cho con trong năm sáu năm trời học tập. Chớ bao giờ làm một việc gì có thể gây khổ đau cho mình và cho kẻ khác, trong hiện tại cũng như trong tương lai. Hãy tiến bước mạnh dạn trên con đường mà con chắc có thể đưa con và mọi người về nơi giác ngộ. Nên nhớ muôn đời những tiêu chuẩn khổ vui và mê ngộ mà hành Đạo, độ Đời. “Thanh bảo kiếm mà ta đã trao cho con, con hãy sử dụng nó để diệt trừ ma chướng. Hãy xem đó như lưỡi gươm trí tuệ nơi tâm con sẽ dùng để hàng phục mê chướng và si vọng. Nhưng để giúp con, ta cho con thêm một bảo bối này để con có thể thành tựu công quả một cách dễ dàng.”

Người thong thả lấy trong tay áo ra một chiếc kính nhỏ và đưa cho chàng: “Đây là Mê Ngộ Cảnh. Tấm kính này sẽ giúp con biết rõ thiện ác, chính tà. Có người gọi nó là kính chiếu yêu, bởi vì qua tấm kính này, con có thể thấy được nguyên hình của loài yêu quái.”

Chàng nhận bảo kính và cảm động đến nỗi nói không nên lời. Tờ mờ sáng hôm sau, chàng lên bái biệt sư phụ xuống núi. Người tiễn chàng xuống tận dòng Hổ Khê và thầy trò từ biệt nhau trong tiếng suối róc rách chảỵ Sư phụ đặt bàn tay hiền dịu trên vai chàng nhìn thẳng vào cặp mắt chàng. Và nhìn theo chàng dũng sĩ ra đi. Người còn dặn theo: “Nhớ không con, nghèo khổ không thay đổi, vũ lực không khuất phục, giàu sang không mờ ám nhé. Ta ở đây đợi ngày con mang đạt nguyện trở về.”

Chàng nhớ lại những ngày đầu tiên xuống núi tiếp xúc với cuộc đời. Chàng đã gặp trên con đường hành đạo bao bộ mặt khác nhau của con người, đã dùng bảo kiếm và mê ngộ cảnh của sư phụ chàng một cách có hiệu quả. Chàng còn nhớ có một lần kia, trên con đường hành đạo, chàng gặp một vị đạo sĩ tay cầm phất trần, đi lại gần chàng và mời chàng về động để bàn tính công việc giúp đời. Đạo sĩ tỏ ra rất hăng hái với việc cứu nhân độ thế và giúp ích mọi loài. Ban đầu, chàng say sưa nghe theo lời đạo sĩ.

Nhưng trong lúc tiếp xúc với vị đạo sĩ, chàng nhận thấy người này có vẻ khả nghi. Chàng đưa tay rút mê ngộ cảnh ra chiếu. Trước mắt chàng, không phải là một đạo sĩ mà là một con yêu lớn có hai nanh dài, một cặp sừng trên trán và hai con mắt xanh lè đổ lửa. Chàng vội nhảy lui lại và rút bảo kiếm chém. Yêu quái cố sức kháng cự, nhưng cuối cùng, chàng thắng, và yêu quái hiện nguyên hình quỳ dưới chân chàng xin dung toàn tánh mạng. Chàng bằng lòng tha tội nhưng buộc yêu quái phải trân trọng hứa lui về tu luyện để thoát xác thành người mà không được trá hình đạo sĩ để lừa bịp và tìm cách nuốt sống những kẻ khờ dại dễ tin.

Một lần khác, chàng gặp một vị đường quan, rất có dáng dấp một bậc cha mẹ dân. Vị đường quan râu dài bạc phơ, hứa sẽ trọng dụng chàng và đã chịu khó thức suốt một đêm để bàn với chàng về những điều chánh trị ích quốc lợi dân. Vị đường quan đã tỏ ra mình là một người thiết tha đến hạnh phúc muôn dân, nhưng khi đưa mê ngộ cảnh lên, chàng hoảng hốt nhận đó là một con heo khổng lồ với cặp mắt háu đói, thèm khát, vô cùng khủng khiếp. Chàng đứng dậy rút gươm chém. Yêu quái bỏ chạy nhưng chàng đã nhảy ra đứng chận giữa cửa công đường và hét bảo nó hiện nguyên hình. Con heo kinh khiếp hiện hình quỳ dưới chân chàng cầu xin tha tội và hứa sẽ về tu luyện tinh tấn, thoát xác biếng lười, không còn dám trá hình để rúc rỉa xương thịt người dân vô tội.

Có một hôm, đi ngang qua chợ, chàng thấy thiên hạ già trẻ trai gái xúm quanh ngôi hàng sách. Người đang bày bán sách và tranh cho mọi người là một cô gái mặt hoa da phấn, trên miệng luôn luôn sẵn có một nụ cười. Thiên hạ trầm trồ khen ngợi tranh vẽ và thi nhau mua sách. Bên cạnh cô ta lại có một cô gái khác, cũng mặt hoa da phấn, tay ôm đàn, miệng cất tiếng hát khiến mọi người đã mua sách phải mê mẫn tâm thần không muốn ra khỏi cửa hàng. Thật là một cảnh thái bình nên thơ. Chàng cũng ngây ngất đứng nghe, và cuối cùng chàng lại gần cầm lên một bức họa. Màu sắc làm chàng choáng ngợp, nhưng qua nội dung chàng thấy thoáng gợn trong tâm linh một ít nghi ngờ. Đưa mê ngộ cảnh lên nhìn, chàng hốt hoảng thấy nguyên hình hai con rắn độc, phun nọc phè phè. Chàng vội gạt mọi người ra, rút bảo kiếm, quát lên: Nghiệt súc! đừng phun nọc độc hại người. Mọi người chạy tán loạn. Hai con rắn độc văng mình tới. Nhưng trước thần lực của lưỡi bảo kiếm, cuối cùng đành phải khoanh tròn dưới gối chàng van xin thứ tội. Chàng dùng bảo kiếm cắt đứt nọc độc, đốt cháy cửa hàng và tha cho yêu súc, buộc cả hai phải hứa trở về núi tu luyện cho thoát kiếp ngậm nọc phun người. Cứ thế, chàng đã sử dụng bảo kiếm và mê ngộ cảnh theo đúng lời sư phụ dặn để cứu người và giúp đời.

Chàng đã sống miệt mài với nhiệm vụ. Đã từ lâu chàng vẫn tự cho rằng chàng là người dũng sĩ cần thiết cho cuộc đời. Cuộc đời không thể vắng bóng chàng. Chàng đã trà trộn trong cuộc sống, có khi thành công, nhưng cũng nhiều khi thất bại. Đối diện với cuộc sống đầy mưu mô gian trá, nhiều lúc chàng phải uốn mình, linh động theo hoàn cảnh để chinh phục và chiến thắng. Có lúc chàng say sưa miệt mài trong công việc. Chàng cảm thấy thích thú khi hành động. Có khi chàng say mê quên cả ăn cả nghỉ, vì một sự theo đuổi mà chàng cảm thấy vì vui thích mà thực hiện hơn là ý thức rằng mình cần hoạt động để mà phụng sự. Thời gian trôi cứ như thế cho đến bảy năm. Một hôm trong lúc ngồi nghỉ bên một dòng sông, nhìn dòng nước lặng lẽ trôi, chàng giật mình thấy đã từ lâu, gần hai năm nay, chàng không dùng đến mê ngộ cảnh. Chàng không dùng, không phải là chàng quên rằng mình có mê ngộ cảnh, mà chỉ vì chàng thấy không thích dùng. Chàng nhớ lại trước đây đã có một thời chàng dùng mê ngộ cảnh một cách miễn cưỡng. Chàng nhớ lại những ngày mới xuống núi ấy, chàng đã chiến đấu rất hăng hái khi thấy nguyên hình những yêu quái xuất hiện trên mê ngộ cảnh. Chàng cũng cảm thấy hân hoan vô hạn khi soi thấy trên mê ngộ cảnh hình dáng các bậc hiền nhân. Nhưng trong thời gian trước đây, một cái gì khác lạ đã đến trong tâm hồn chàng, đến lúc nào chàng không nhận rõ. Chàng đã không thiết tha lắm khi nhìn thấy hình bóng một bậc hiền nhân, mà cũng không giận dữ lắm khi thấy một bóng hình yêu quái. Trong bóng hình yêu quái đó, đôi khi chàng lại nhận ra một vài nét hơi quen thuộc, và lưỡi bảo kiếm đã có thờ ơ khi có những bóng hình yêu quái xuất hiện trước kính thần.

Cho đến những ngày gần đây, chàng không dùng mê ngộ cảnh nữa. Chiếc kính vẫn nằm trong túi áo chàng, nhưng đã từ lâu không còn được sử dụng. Chàng lấy làm lạ và đã nói nhiều lần định quay về hỏi sư phụ. Nhưng đã ba tháng qua, bận bịu những gì không đâu, chàng chưa có thể trở về. Mãi cho đến hôm mười hai tháng tám trước đây, đi qua một rừng mai hoa nở, thấy sắc hoa trắng như tuyết lấp lánh dưới ánh trăng thu, nhớ đến những ngày thơ ấu bên rừng mai già học tập dưới chân thầy, chàng mới quyết định trở về. Đường về sao chàng thấy xa quá. Bảy ngày trèo non lặn suối mới về tới được chỗ cũ.

Nhưng đến chân núi thì trời đã tối. Trăng cũng vừa lên và hai cánh cửa tùng cũng đã khép chặt lối mòn. Chàng đành phải đợi. Buổi sáng, người sư đệ của chàng thế nào cũng phải xuống suối múc nước, và như vậy sẽ mở cửa cho chàng. Trăng đã lên tới quá đỉnh đầu, ánh trăng vằng vặc chiếu xuống rừng núi âm u. Trời càng về khuya càng lạnh. Chàng lại rút kiếm ra nhìn. Ánh trăng lại lấp lánh trên lưỡi kiếm. Chàng lại tra kiếm vào vỏ. Trên mặt chàng thoáng nét ưu tư sầu muộn. Chàng đứng dậỵ Trăng sáng quá. Núi rừng vẫn u tịch và lạnh lùng. Chàng ngồi xuống phiến đá chờ đợi. Quãng đời bảy năm qua lại trở về trong trí óc chàng. Trăng dần dần về phía núi xa. Ngàn sao lấp lánh linh động hơn, và cuối cùng bắt đầu mờ nhạt. Phương đông đã nhuộm dần ánh sáng mờ mờ.

Đường viền ngọn núi đã nổi dần trên vầng sáng nhạt. Bình minh sắp về. Chàng nghe tiếng lá khô xào xạc trên núi.Ngửng lên chàng thấy một bóng người mờ nhạt từ trên đi xuống. Chắc hẳn là người sư đệ của chàng. Trời đang tối quá chàng nhìn không rõ, chỉ thấy hình bóng.

Nhưng chắc chắn đó là người sư đệ, bởi vì tay có cầm tịnh bình. Chàng đứng dậỵ Bóng người tiến xuống và khi đến gần cánh cửa thì cũng vừa nhận ra được chàng dũng sĩ.

– “Đại huynh”

– Sư đệ! – Đại huynh về bao giờ thế ? – Ta về lúc trăng mới lên và phải đợi cả đêm dưới nàỵ. Tại sao sư phụ lại cho đóng bít lối lên như thế ? Người sư đệ mỉm cười đưa nhẹ tay mở cửa. Hai cánh cửa tùng bật ra một cách dễ dàng. Bước ra nắm lấy tay chàng và nhìn chàng tận mặt. -“Đại huynh ở một đêm giữa trời chắc lạnh lắm. Sương phủ ướt áo thế này mà, thôi để tiểu đệ phủi bớt cho. Trước kia đệ thường ở dưới núi hái rau nhặt củi và luôn tiện canh chừng người lên núi. Lâu lâu mới có một người lên núi. Nếu tiểu đệ thấy ai đáng lên hầu sư phụ thì tiểu đệ cho lên, nếu họ không đáng lên thì em lẫn tránh để cho họ lạc đường. Sư huynh biết rằng sư phụ không bao giờ muốn tiếp những người lên núi với tâm niệm không lành. Độ này tiểu đệ bận tập luyện luôn mà sư phụ cũng bận ngồi tĩnh tọa trong thạch động nên người dặn cho đệ khép cửa chắng ngang lối lên dưới này. Sư phụ có trao phép lạ khiến cho cửa tự động mở ra khi các bậc hiền nhân đến. Nhưng khi những kẻ phàm tục lên thì cửa cứ đóng chặt không thể nào vượt qua được. Nhất là khi kẻ ấy có yêu khí thì đừng mong lên núi.”

Chàng dũng sĩ cau mày:

“Nhưng không lẽ ta mà lại là yêu quái ? Sao cửa lại đóng chặt?”

Người sư đệ cười lớn: – “Vâng đại huynh sao lại là yêu quái được! Đệ cũng quên đi mất là tại sao cửa lại đóng. Nhưng bây giờ dù sao thì đại huynh cũng lên núi được rồi cơ mà, vì cửa đã mở. Nhưng đại huynh đợi em chút nhé. Để tiểu đệ xuống suối múc nước rồi cùng lên một thể. Hay đại huynh xuống suối với đệ cho vui. Cười lên chứ, đại huynh giận ai mà nét mặt trông khó đăm đăm như vậy.”

Hai anh em cười vang. Chàng dũng sĩ đi theo người sư đệ xuống suối. Mặt trời vẫn chưa lên, nhưng phương đông đã rạng. Hai người đã có thể nhìn rõ mặt nhau. Mặt suối lặng trong, in màu hồng của rạng đông. Bóng hai người đứng song song in hình trên mặt suối. Chàng dũng sĩ trong bộ võ phục hiên ngang, lưng đeo trường kiếm. Người sư đệ trong y phục tiểu đồng hòa nhã, tay cầm tịnh bình. Hai người cùng nhìn bóng mình in trên mặt nước mỉm cười. Một con bọ nước nhảy, làm mặt nước hồng gợn nhẹ và bóng hai người rung rung theo làn sóng nước gợn.

“Bóng chúng ta trên mặt nước đẹp quá nhỉ! Nếu bây giờ tiểu đệ múc nước thì sóng dậy và bóng tan mất. À này đại huynh “mê ngộ cảnh” sư phụ cho đại huynh còn giữ đó không?” Chàng dũng sĩ cho tay vào túi trả lời:

– Còn đây

– Tại sao chúng ta không đem ra chiếu hình chúng ta xem nào.

Chàng sực nhớ là từ lâu chàng chưa chiếu mê thử trước hình bóng mình. Chàng lấy kính thần ra, lau bụi vào vạt áo, chiếu trên mặt nước. Hai anh em châu đầu vào mặt kính.

Nhưng bỗng cả hai người cùng hét lên một tiếng kinh hoàng, khủng khiếp, và tiếp theo đó chàng dũng sĩ ngã quỵ trên bờ suối bất tỉnh. Tiếng thét kinh khủng làm chấn động cả núi rừng hoang dại. Một con nai đang uống nước phía trên dòng hoảng hốt đưa đầu lên nhìn, ngơ ngác kinh sợ. Người sư đệ vừa trông thấy trong kính thần, hình bóng của mình đứng bên cạnh hình bóng một con yêu to lớn với đôi mắt tối sâu như hai miệng giếng không đáy, hai chiếc răng dài quập sâu vào chiếc càm vuông, trên một khuôn mặt xám ngoẹt như gà cắt tiết.

Người sư đệ rùng mình dụi mắt nhìn lại, trên bờ suối đá xanh, chàng dũng sĩ vẫn nằm ngã lăn bất tỉnh, trên mặt vẫn còn in rõ nét kinh hoàng, đau khổ hiện hình một cách thảm hại trên con người đã từng xông pha lăn lộn bảy năm trong cuộc đời đầy cát bụi.

Người sư đệ đến ôm lấy chàng dũng sĩ và lấy nước suối vã vào mặt chàng. Vài phút sau, chàng tỉnh dậy, nét mặt vô cùng bi thảm. Hình bóng trên mê ngộ cảnh hiện ra bất ngờ quá và ý thức tự giác trong nháy mắt đã làm cho chàng ngã quỵ. Chàng đã mất hết nghị lực, mất hết sự sống. Tứ chi chàng rời rã, chàng không thể đứng dậy được nữa. Một chân quỵ xuống cát, người sư đệ dịu dàng nâng chàng ngồi dậỵ Nét thiểu não và khổ đau còn in rõ trên khuôn mặt chàng.

– “Thôi, đại huynh vui lên. Chúng ta sẽ lại lên núi”

Giọng nói của người sư đệ êm như một hơi gió thoảng, nhẹ như một tiếng thì thầm. Nhưng chàng lắc đầu một cách thất vọng. Chàng không còn muốn sống. Đau khổ đã làm chàng thảm não và tâm hồn chàng vừa bị tàn phá tang thương như mặt đất sau cơn phong vũ điên cuồng. Chàng không còn dám có ý tưởng lên núi để nhìn mặt sư phụ. Người sư đệ vuốt tóc chàng, an ủi: “Thầy thương anh lắm. Không sao đâu, đại huynh sẽ ở mãi bên thầy (vỗ về). Đại huynh sẽ sống bên em như những ngày xưa êm đẹp cũ (khóc). Em không ngờ bao nhiêu năm dưới núi đã tàn hại anh đến thế.”

Và người ta thấy trên con đường mòn cheo leo lên núi, bóng người sư đệ lần từng bước dìu chàng dũng sĩ trở lên động. Trời vẫn còn chưa sáng hẳn, bóng hai người in trên màn sương mỏng nhẹ của núi rừng buổi sáng. Tia nắng đầu tiên soi rõ dáng điệu thiểu não rời rã của chàng dũng sĩ bên cạnh dáng điệu diệu dàng từ hòa của người sư đệ. Mặt trời đã nhô khỏi đỉnh núi xa.

(Thích Nhất Hạnh)

Sunday, 26 May 2019

Bác cũng là cướp biển


Khi bạn tin rằng tất cả đều chấm dứt thì đó chính là lúc mọi thứ mới bắt đầu. - Louis L'Amour
Một ngày nọ, khi bà Smith đang ngồi trong phòng đợi của bệnh viện thì thấy một cậu bé được mẹ dẫn vào. Thằng bé khiến bà phải chú ý vì một bên mắt của cậu được bịt lại bằng một miếng da màu đen. Bà ngạc nhiên khi thấy thằng bé dường như không hề quan tâm đến con mắt bị hư của mình.
Hôm đó khá đông bệnh nhân. Do vậy, trong thời gian chờ đợi, bà Smith kín đáo quan sát hai mẹ con khi họ ngồi xuống chiếc ghế gần đó. Thằng bé thích thú dàn trò tập trận với các chú lính đồ chơi mang theo. Bà Smith tìm cách bắt chuyện với cậu bé và hỏi vì sao mắt nó lại bị như vậy. Thằng bé suy nghĩ một hồi lâu rồi trả lời bằng cách nhấc miếng da đen ra khỏi mắt:
- Bác ơi, mắt cháu có bị làm sao đâu! Cháu là cướp biển mà! - Nói xong, nó lại tiếp tục chơi với những chú lính.
Một chân của bà Smith đã bị cưa đến đầu gối sau một tai nạn giao thông. Hôm nay bà đến đây để bác sĩ gắn chân giả cho bà. Mất mát này khiến bà suy sụp tinh thần rất nhanh. Dù đã cố gắng tỏ ra can đảm nhưng lúc nào bà cũng mang ý nghĩ rằng mình là người tàn phế. Bà hiểu mất mát như vậy không ảnh hưởng đến cuộc sống của bà nhưng bà lại không thể vượt qua được trở lực này. Theo phương pháp chữa trị bằng tâm lý, bà đã thử tưởng tượng mọi điều theo hướng tích cực nhưng không một hình ảnh nào đủ sâu đậm mà cảm xúc của bà có thể chấp nhận được. Sâu trong tâm tưởng, bà vẫn cảm thấy mình là một người bỏ đi.
Nhưng giờ đây, khi nghe hai từ "cướp biển" thốt ra từ một đứa bé, ngay lập tức, một sự chuyển biến sâu sắc ùa đến trong tâm tưởng bà, một cảm giác mới lạ chưa từng có tràn ngập trong từng thớ thịt. Bà thấy mình đang đứng trên boong tàu, mặc trang phục như nhân vật cướp biển Long John Silver Chân Gỗ, người vươn thắng, hai chân hơi dang ra - một chân bằng gỗ, hai tay chống nạnh vào sườn, đầu ngẩng cao, miệng cười ngạo nghễ dưới trời giông bão. Những cơn gió quất mạnh vào người bà như muốn giật phăng chiếc áo khoác đang mặc trên người và thổi tung mái tóc bà ra phía sau. Những đợt sóng dữ dội liên tiếp va vào thành tàu, quét ngang qua hàng lan can bằng sắt. Con tàu như đang lặn hụp và rên xiết dưới can giận dữ của bão tố. Thế mà bà vẫn đứng vững - hiên ngang và kiêu hãnh. Hình ảnh của một người tàn phế không còn nữa. Bất chợt, bà trìu mến đưa mắt nhìn cậu bé, vẫn còn đang mải chơi với các chú lính. Ít phút sau, cô y tá bước ra mời bà vào. Khi bà khập khiễng bước trên đôi nạng gỗ, cậu bé lúc này mới nhận ra đôi chân không lành lặn của bà. Nó buột miệng hỏi:
- Bác ơi, chân bác bị sao vậy?
Người mẹ nghe thế liền mắng con và xin lỗi bà Smith. Nhưng bà chỉ nhìn xuống cái chân cụt của mình rồi trả lời cậu bé bằng một nụ cười hiền hậu pha chút tự hào:
- Có gì đâu cháu. Bác cũng là cướp biển mà!
- First News Theo Viva Consulting

Tuesday, 9 August 2016

Cha tôi đã dạy tôi về phi bạo lực như thế nào

Tôi 16 tuổi và sống chung với cha mẹ tôi ở học viện do ông nội tôi thành lập , cách Durban, Nam Phi 18 dặm , giữa các đồn điền trồng mía. Chúng tôi ở vùng quê xa , không có hàng xóm lân cận, nên hai chị em tôi và tôi lúc nào cũng háo hức để được đi vào thị trấn thăm bạn bè hoặc đi xem phim.


Một ngày nọ, cha tôi bảo tôi lái xe đưa ông tới thị trấn để tham dự một hội nghị diễn ra cả ngày, và tôi nhảy đã lên vì vui sướng, cuối cùng cơ hội đã đến. Khi tôi đi đến thị trấn, mẹ tôi đã cho tôi một danh sách các cửa hàng tạp hóa mà bà cần, vì tôi nguyên một ngày ở thị trấn nên cha tôi muốn tôi để ý đến một số việc, chẳng hạn như bảo dưỡng xe. Khi tôi chở cha tôi đến địa điểm  sáng hôm đó, ông dặn lại tôi : "Cha sẽ gặp con ở đây lúc 5pm và chúng ta sẽ về nhà cùng nhau."



    Manilal Gandhi, con trai thứ 2 của Mahatma Gandhi và là cha của Arun Gandhi



Sau khi hoàn thành nhanh chóng công việc của mình tôi đã đi thẳng tới rạp chiếu phim gần nhất. Tôi mải mê xem phim John Wayne quên mất thời gian. Lúc đó đã là 05:30 và tôi mới nhớ ra nhiệm vụ của mình. Tôi chạy như bay đến garage, lấy xe và vội vã lái xe đến nơi cha tôi đang đợi, lúc đó đã gần như 06:00. Ông lo lắng hỏi tôi: "Tại sao con đến muộn thế?" Tôi rất xấu hổ nếu nói rằng tôi trót xem phim mà quên mất việc đón ông. Tôi đã nói rằng , Xe chưa sửa xong nên tôi phải đợi, và đã không nhận ra rằng ông đã gọi đến garage. Khi ông biết tôi nói dối ông bảo : "Cha nghĩ đã có điều gì đó không ổn trong cách cha nuôi dạy con để con không đủ tự tin nói sự thật cho cha biết.. Và để tìm ra nguyên nhân cha sẽ đi bộ 18 dặm về nhà để suy nghĩ về điều này.



Và cha tôi trong bộ đồ comple, đi giày cuốc bộ về nhà trên con đường tối om ,gập ghềnh hầu  như không có đèn, Tôi không thể bỏ cha lại như thế được và tôi đã lái xe đi sau ông trong vòng 5.5h đồng hồ, xem cha tôi đã chịu đựng sự thương tổn chỉ vì một lời nói dối ngu ngốc của tôi


Từ đó về sau tôi quyết định không bao giờ nói dối một lần nữa. Tôi thường nghĩ về điều đó và tự hỏi, nếu ông đã trừng phạt tôi theo cách mà cha mẹ hay trừng phạt con cái thì liệu tôi có học được ra bài học hay không. Hành động phi bạo lực của cha tôi mạnh mẽ đến nỗi tôi tưởng như thể nó mới xảy ra ngày hôm qua.  Đó chính là  sức mạnh của phi bạo lực.

Monday, 16 May 2016

Thế giới tương lai

Trích trong truyện ngắn Giấc mơ của một kẻ nực cười,  Fyodor Dostoevsky, 1877

Bỗng nhiên, tình cờ tôi thấy mình đang đứng ở một trái đất khác trong ánh nắng rạng rỡ của một ngày đẹp như trên thiên đường. Ôi chao, mọi thứ giống hệ như ở trái đất nhưng dường như chúng đang có lễ hội, mọi thứ tỏa ra niềm vui sướng hân hoan thần thánh. Biển êm đềm xanh biếc nhẹ nhàng vỗ sóng, ôm lấy bờ với tình yêu tha thiết và ý thức. Những cái cây cao và đẹp đứng đó nở tràn hoa, và tôi chắc chắn rằng vô số những chiếc lá của chúng đang đón chào tôi với những tiếng rì rào như những lời yêu thương. Bãi cỏ lấp lánh với những đóa hoa đang tỏa hương. Những chú chim nhỏ từng đàn đang bay trong không trung, và như chúng không sợ tôi, đậu xuống vai và tay tôi vui vẻ vỗ những chiếc cánh nhỏ vào tôi.
Và cuối cùng tôi cũng được nhìn thấy và biết đến con người của miền đất hạnh phúc đó. Họ tới chỗ tôi vây quanh và ngắm nhìn tôi. Những người con của mặt trời. Ôi, họ đẹp biết bao. Tôi chưa bao giờ thấy vẻ đẹp này ở con người trên trái đất. Có lẽ chỉ ở những đứa trẻ nhỏ mới có thể tìm thấy sự phản chiếu xa của vẻ đẹp đó. Đôi mắt họ lấp lánh ánh rạng rỡ. Khuôn mặt họ tỏa ra sự thông tuệ và ý thức dường như đã đạt đến mức bình yên nhờ đầy hiểu biết. Khuôn mặt họ rất vui vẻ, hân hoan, niềm vui trong sáng trẻ thơ thể hiện trong lời nói và giọng nói nơi họ.
Từ cái nhìn đầu tiên vào khuôn mặt họ, tôi như ngay lập tức hiểu được tất cả. Đây là một thế giới không bị vẩn đục bởi cái xấu, sống trên đó là những con người không làm điều xấu. Họ sống trong một thiên đường tương tự như nơi mà theo truyền thuyết của toàn nhân loại, ông cha ta đã sống trước khi sa vào tội lỗi, ngoại trừ một điều rằng cả thế giới đều là một và là Thiên đường. Những con người này cười vang vui vẻ bao quanh tôi và nâng niu tôi. Họ đưa tôi về nhà họ và mỗi người đều cố gắng trấn an tôi. Họ không hỏi han tôi nhưng tôi thấy dường như họ hiểu hết mọi thứ và họ cố gắng làm tiêu tan đi nhanh chóng nỗi đau khổ lộ trên nét mặt tôi.
Những cảm nhận về tình yêu của những con người trong sáng và đẹp đẽ này mãi mãi ở trong tôi và tôi cảm thấy rằng tình yêu của họ từ đó thậm chí đến giờ vẫn dành cho tôi. Chính tôi đã nhìn thấy họ, đã biết họ và tôi trở nên nhận thức rằng tôi yêu họ và tôi đau khổ vì họ.
Ngay lúc đó tôi hiểu rằng trong nhiều khía cạnh tôi không nên hoàn toàn hiểu họ. Điều này dường như không thể tin được, ví dụ rằng họ những người biết rất nhiều, không có khoa học của chúng ta. Nhưng sau đó tôi hiểu rằng kiến thức của họ được mở rộng và khác với những khám phá khác với trái đất của chúng ta, và khao khác của họ cũng hoàn toàn khác biệt. Họ không có những ham muốn và họ rất bình thản. Họ không khao khát kiến thức cuộc sống như chúng ta cố gắng hiểu nó vì cuộc sống của họ đầy đủ, viên mãn. Tuy nhiên, kiến thức của họ sâu sắc hơn và cao hơn kiến thức của nền khoa học chúng ta. Kể từ khi những thế hệ sau tìm cách giải thích cuộc sống là gì, bản thân khoa học đã tìm cách nhận thức nó để dạy người khác sống thế nào, thì những con người này lại biết sống như thế nào thậm chí không cần đến khoa học, điều này thì tôi hiểu. Tôi không thể thiểu được kiến thức của họ. Họ chỉ cho tôi những cái cây còn tôi không hiểu được giới hạn của tình yêu mà họ dành cho chúng, như thể họ đang trò chuyện với những người thân của mình. Và bạn biết không, có lẽ tôi không nhầm khi nói rằng họ đã trò chuyện với chúng. Vâng, họ đã phát hiện ra ngôn ngữ của chúng và tôi chắc rằng những cái cây cũng hiểu họ.
Cũng theo cách đó họ nhìn thế giới tự nhiên, những con vật sống hòa bình với họ và không bao giờ tấn công họ, chúng yêu quí những con người ấy, họ đã chinh phục chúng bằng tình yêu thương. Họ chỉ về những vì sao và nói với tôi điều gì đó mà tôi không hiểu được, nhưng tôi chắc rằng họ giao tiếp với những vì tinh tú theo một cách nào đó, không chỉ qua ý nghĩ mà còn qua một đường truyền sống động…
Họ rất hoạt bát vui vẻ như những đứa trẻ. Họ dạo chơi trong những khu rừng nhỏ tuyệt đẹp, hát những bài hát đáng yêu, họ sống dựa vào những thực phẩm nhẹ nhàng, hoa trái từ cây của họ, mật ong từ trong rừng và sữa từ những loài vật yêu quí họ. Họ lao động nhưng ít mà nhẹ nhàng để có thức ăn và quần áo. Họ được phú cho tình yêu và trẻ con được sinh ra, nhưng chưa bao giờ tôi thấy họ có những ham muốn nhục dục tội ác, thứ mà tác động đến tất cả mọi người trên trái đất và là nguồn gốc của tất cả mọi tội lỗi loài người. Họ vui mừng đón những đứa trẻ mới sinh ra như những người tham gia vào thế giới hạnh phúc ấy. Họ không bao giờ cãi nhau và không hề có sự ghen tỵ giữa họ, và thậm chí không hiểu những thứ đó nghĩa là gì. Những đứa con của họ đều là con chung bởi chúng tạo nên một gia đình. Không có bệnh tật cho dù có cái chết. Tuy nhiên, những người già qua đời một cách nhẹ nhàng như đi vào giấc ngủ, xung quanh là mọi người nói lời tạm biệt họ, cầu phước cho họ để họ ra đi với nụ cười thanh thản, rồi xuất thần nhưng là trạng thái xuất thần điềm tĩnh và trong thiền định. Họ có thể hình dung rằng họ sẽ vẫn tiếp tục liên hệ được với người chết thậm chí lâu sau khi họ chết và mối liên lạc trần tục của họ không thể bị ngăn cách bởi cái chết.
Họ rất tin một cách không thể giải thích được vào cuộc sống vĩnh hằng đến nỗi không cần đặt câu hỏi về nó. Họ không có đền thờ nhưng trong họ có sự liên hệ hợp nhất, thường hằng với toàn bộ vũ trụ. Họ không có tín ngưỡng, mà có hiểu biết chắc chắn rằng khi niềm vui trần thế của họ đã đạt đến giới hạn của bản chất trần thế, thì họ sẽ có được một mối liên hệ viên mãn vĩ đại với cả vũ trụ, về cả sự sống lẫn cái chết. Họ mong chờ khoảnh khắc đó với niềm sướng vui không vội vã, không đau khổ mà thuận theo tự nhiên, và có vẻ như họ đã dự cảm được từ trước giờ phút đó trong trái tim mình và họ nói điều đó với nhau.
Vào buổi tối, trước khi đi ngủ, họ thích hát đồng ca. Trong những bài hát này họ thể hiện những tình cảm cho một ngày vừa qua, ca ngợi nó và tạm biệt nó. Họ ca ngợi tự nhiên, trái đất và biển cả núi rừng. Họ thích sáng tác ra những ca khúc về nhau. Họ khen ngợi nhau như những đưa trẻ. Đó là những bài hát giản dị nhất nhưng chúng xuất phát từ trái tim và đi đến trái tim. Và không chỉ trong các ca khúc mà dường như là họ yêu mến nhau trong suốt cả cuộc đời. Đó là một niềm say mê chung, hoàn chỉnh và rộng khắp.

(nhóm dịch Hearts and Souls)

Friday, 25 September 2015

Chiến thắng thật sự sau truyền thuyết 1 dặm 4 phút

Câu chuyện này không giống những câu chuyện bạn đã từng đọc.



Trong nhiều thập kỷ tranh giải Olympic, không vận động viên điền kinh nào có thể chạy hết 1 dặm trong 4 phút. Thực ra thì năm 1903, Harry Andrews, một huấn luyện viên Olympic người Anh đã tuyên bố kỷ lục 4 phút 12 giây 75 không thể nào bị phá vỡ. Và ông có lý do để cảm thấy điều đó là chắc chắn. Kỷ lục này do một vận động viên điền kinh người Anh, Walter George, thiết lập từ năm 1886, và mười bảy năm sau đó chưa hề có vận động viên nào đạt được dưới hai giây so với kỷ lục đó. Nếu kỷ lục này không thể bị phá, như Andrew nghĩ, thì 1 dặm trong 4 phút càng là một mục tiêu hoang tưởng cho bất kỳ ai muốn đạt được.

Cùng trong thời gian đó, các vận động viên cũng nghe những người được cho là chuyên gia ra rả các lý do ủng hộ cho sự khẳng định của vị huấn luyện viên nọ. Ngay cả cộng đồng y khoa cũng khuyến cáo các vận động viên rằng áp lực lên cơ thể trong việc cố gắn chạy một dặm trong 4 phút có thể gây hại cho cơ thể.

Mãi cho đến năm 1915 kỷ lục này, vốn đã được duy trì trong suốt hai mươi chin năm, mới bị phá vỡ. Tuy nhiên, kỷ lục 4 phút 12 giâu 6 cũng còn cách xa mức 4 phút. Thực ra thì kỷ lục gần với mức này được thiết lập năm 1945 khi Gunder Hagg người Thuỵ Điển chạm mức 4 phút 1 giây 3. Và kỷ lục này được duy trì trong gần một thập kỷ. Những vận động viên giỏi nhất thế giới đã đạt rất sát mức kỷ lục này, nhưng không ai có thể phá vỡ nó. Vì sao? Các nhà khoa học nói cơ thể con người không thể chịu nổi áp lực sinh ra khi chạy nhanh như vậy.

Tất cả đã thay đổi vào cái ngày một vận động viên trẻ tuổi người Anh tên Roger Bannister tuyên bố công khai là anh ta có thể chạy hết 1 dặm trong vòng 4 phút. Một năm trước đó, anh đã vô địch cự ly 1 dặm ở Anh và rất sẵn dàng cho giải Olympic. Thật không may, lịch thi đấu có những thay đổi ở phút cuối cùng nên anh không thể nghỉ ngơi giữa các lượt thi đấu, điều đó khiến anh phải về đích ở vị trí thứ tư và hứng chịu búa rìu của báo giới thể thao Anh – những người kết tội anh đã quay lưng với phương pháp huấn luyện và rèn luyện thông thường nên mới có thành tích thảm hại đến như vậy.

Đó là khi, bị thúc đẩy bởi những lời chỉ trích, vận động viên trẻ này phải cứu lấy danh dự của mình bằng việc lập nên một kỷ lục mới với cự ly 1 dặm. Nhưng không phải như các kỷ lục thông thường. Anh sẽ phá vỡ cái rào cản 4 phút gần như bất khả vượt qua đó. Mọi người – các chuyên gia thể thao, các cơ sở y tế, mọi người! – đều nghĩ chắc anh chàng này bị điên!

Sau nhiều trở ngại và thất bại, cơ hội đã đến với anh vào ngày 6 tháng 5 năm 1954, tại một lượt thi đấu ở Oxford, trong giải Liên Đoàn Thể Thao Không Chuyên Anh Quốc. Ngày hôm đó, anh đã làm nên điều bất khả. Anh chạy hết một dặm dưới 4 phút. Huyền thoại vỡ vụn. Kỷ lục không thể phá vỡ sụp đổ.

  Khi cuộc đua chưa bắt đầu, Chris Brasher dẫn đầu với Bannister ngay phía sau và người bạn, cũng là đối thủ của anh, Chris Chataway ở vị trí thức ba. Nửa dặm đầu tiên trôi qua sau 1 phút 58 giây. Sau hai vòng rưỡi, Brasher bắt đầu thấm mệt, Chataway vượt lên dẫn trước và Bannister mau chóng chiếm vị trí thứ hai. Sau ba phần tư dặm, cuộc đua hầu như trở nên dễ dàng hơn. Khi hồi chuông vang lên, báo hiệu vòng chạy cuối cùng, Bannister đã chạy hết 3 phút 0,7 giây và đám đông hò reo vang dội.

Bannister biết rằng nếu muốn đạt được mục tiêu, anh phải hoàn tất vòng chạy cuối cùng trong 59 giây. Chataway đang dẫn đầy ở khúc cua phía trước và cách đích đến 230 mét, Bannister chạy nước rút vượt lên dẫn đầu với sự bứt phá cuối cùng và lao về đích. Lúc đó anh đã chạy thục mạng. Anh biết rằng thời khắc của cả cuộc đời đang nằm trong tầm tay. “Cảm xúc lẫn lộn giữa sợ hãi và tự hào”, anh viết sau đó, có vẻ như là động lực duy nhất tiến lên – anh sợ nếu thất bại, sẽ không có một cánh tay nào nâng đỡ anh và cả thế giới sẽ trở thành một nơi lạnh lẽo, ngột ngạt, vì lần trước anh đã suýt chạm tới sự thất vọng đó.

Ở gần 150 mét cuối cùng, anh được tiếp sức từ sự gào thét, hy vọng và cổ vũ của đám đông trên sân Oxford , từ những người thiết tha mong anh chiến thắng. Mặc dù đã kiệt sức, anh vẫn cố gắng chạy, dưới sự thúc đẩy của sức mạnh ý chí và những năm tháng rèn luyện. Dải băng chỉ đích đến chỉ còn cách anh 5 mét nhưng lại trong có vẻ như đang lùi dần ra xa.

Trong cuốn The First Four Minute Mile, Bannister miêu tả nỗ lực không thể tượng tượng đã góp phần vào chiến thắng của anh. “Những giây cuối cùng dường như kéo dài vô tận. Cái dải băng mờ nhạt chỉ đích đến căng trước mắt tôi trông như nơi trú ẩn của sự bình yên, sau tất cả cố gắng. Tôi nhào tới cái dải băng như một người tung bước nhảy vọt cuối cùng qua một vực thẳm đang chực chờ nuốt chửng lấy anh ta. Mọi nỗ lực đã cạn kiệt và tôi ngã quỵ như bất tỉnh. Lúc đó chỉ có sự đau đớn ngập tràn trong tôi. Tôi cảm thấy một vầng ánh sáng chói loá bùng nổ, không còn thiết sống.”

Bình luận viên trên sân vận động, Norris McWhirter, khiến đáng đông sốt ruột bằng cánh câu giờ càng lâu càng tốt: “Kính thưa các quý bà quý ông, đây là kết quả của cự ly một dặm: R.G.Bannister, thuộc Liên Đoàn Thể Thao Không Chuyên, đã từng thuộc về trường Đại Học Exerter và Merton, Oxford, với kỷ lục được chạy và thi đấu mới, và với thời gian – đã được phê chuẩn – sẽ trở thành Kỷ Lục mới của người dân Anh, của Anh Quốc, của Châu Âu và của cả thế giới. Thời gian là ba phút…”

 Anh ấy đã thành công!

Sau khi Bannister nghiền nát kỷ lục này, các vận động viên điền kinh trên toàn thế giới đã nhìn ra được triển vọng. Trong vòng một năm, 37 vận động viên khác tiếp tục phá vỡ rào cản. Và trong năm tiếp theo, 300 vận động viên khác đã làm được điều này. Ngày nay, ngay cả các học sinh phổ thông cũng có thể chạy hết 1 dặm trong vòng 4 phút.

Khi được hỏi vì sao chỉ trong một thời gian ngắn mà có nhiều người cũng làm được điều đó, Bannister trả lời: “Đó không phải là hạn chế về thể chất mà là rào cản về tinh thần.” Những vận động viên này chỉ đơn giản gỡ bỏ những giới hạn đã nhiều năm giam giữ họ.

Rào cản tinh thần – chúng ta ai cũng có. Một số người trong chúng ta quyết định gỡ bỏ nó và giải phóng năng lực thật sự của mình, và bắt đầu làm được những gì mà trước đây từng bị coi là những điều bất khả. Và bạn cũng có thể làm như vậy. Tất cả những gì bạn cần là xác định những niềm tin sai lầm đang kìm hãm mình, và thay thế nó với những tư tưởng và niềm tin có thể làm bạn mạnh mẽ và tự tin hơn.


~ Trích cuốn sách kinh điển Ngày xưa có một con bò, của Camilo Cruz, Ph.D. 

Friday, 29 May 2015

Chuyện về cái khố của thầy tu



Một đệ tử quyết tâm cầu đạo, xin học với một đạo sư. Sau thời gian học hành chăm chỉ, một hôm sư phụ có việc phải đi xa nên dặn học trò ở lại chăm lo tu hành. Học trò nghe theo lời thầy, thiền định sớm hôm không hề bê trễ, vì nếp sống tu hành thanh bần, tu sĩ chỉ có độc hai miếng khố che thân. Nhưng chiếc khố cứ bị chuột cắn rách hoài nên tu sĩ cứ lâu lâu lại phải đi xin một mảnh vải che thân khác. 


Dân làng thấy vậy, bèn biếu tu sĩ một con mèo để trừ lũ chuột. Tu sĩ đem con mèo về nuôi, từ đó chuột không dám lộng hành nữa, nhưng tu sĩ lại phải lo thêm một phần ăn. Ngoài thực phẩm chay tịnh, tu sĩ phải xin sữa để nuôi con mèo. Một tín đồ thấy vậy bèn tình nguyện dâng cúng tu sĩ một con bò cái để có sữa nuôi mèo. Tu sĩ vui vẻ nhận con bò nhưng nuôi được mèo lại không có rơm cho bò ăn. Do đó, ngoài thức ăn khất thực, tu sĩ lại phải đi xin rơm về nuôi bò. Dân làng thấy vậy bèn biếu tu sĩ một mảnh đất và dụng cụ canh nông để tu sĩ trồng trọt, nuôi bò. Tu sĩ ra công cày cấy nên rau trổ thật nhiều, bò ăn không hết, phải mang bán ngoài chợ. Miếng đất thật mầu mỡ sinh hoa lợi quá nhiều, tu sĩ làm không xuể, phải gọi người đến làng giúp. Lạ thay, miếng đất cứ thế sinh sôi nẩy nở, trồng gì cũng tươi tốt và chả mấy chốc trở nên một đồn điền trù phú.

Tu sĩ có nhiều hoa lợi bèn xây một đền thờ to lớn, đẹp đẽ, thuê thợ khắc tượng, đúc chuông thật vĩ đại, nhưng thời gian tu hành không còn là bao vì tu sĩ phải lo trông nom đồn điền, lo sổ sách giao dịch buôn bán, kiểm soát nhân công trồng tỉa, rồi có tiền bạc phải lo đầu tư, bỏ vốn mua thêm đất đai, khai khẩn thêm nữa.

Một hôm, sư phụ trở về không trông thấy túp lều đơn sơ nữa mà thay vào đó một ngôi đền tráng lệ, nô nức khách hành hương, trong đền ồn ào những tín đồ vừa cúng bái vừa buôn bán.

Trông thấy sư phụ, tu sĩ mừng rỡ chạy ra chào. Sư phụ ôn tồn hỏi tại sao lại có sự thay đổi như thế. Tu sĩ trả lời, 'thưa thầy, thật tâm con muốn tu hành nhưng tại lũ chuột cứ cắn rách áo hoài. Để bảo vệ cái áo, con nuôi mèo. Để có sữa cho mèo ăn, con phải nuôi bò, và để có rau nuôi bò, con phải canh tác. Rồi thì trúng mùa liên tiếp, sức con làm không xuể nên phải gọi thêm người làm giúp, rồi thì buôn bán thành công, tiền bạc nhiều thêm, con phải đích thân trông nom mọi việc. Sau đó con cho xây cất đền thờ to tát, đúc tượng thật vĩ đại, con còn mướn người lo việc cúng tế, nhang đèn cẩn thận'.
Sư phụ thở dài, 'xây cất đền thờ thật to chỉ là trói buộc, nào phải giải thoát. Tụ tập tín đồ cho đông, ồn ào phức tạp, chỉ gây trở ngại cho việc thanh tu. Chỉ vì một cái khố rách mà con đã đi thật xa, xa hẳn con đường mà ta đã chỉ dạy nhằm việc giải thoát. Con chỉ lầm lẫn một chút mà đã đi lệch lúc nào không hay, trói buộc vào các thứ đó rồi làm sao có thể thoát được?' 

Còn có phiên bản kể rằng, sau khi việc buôn bán thành công, thầy tu làm không xuể. Dân làng liền khuyên thầy tu rằng, hãy kiếm một người trông nom mọi việc, hoặc tìm một quản gia, hoặc lấy một cô vợ. Thế là thầy tu lấy vợ. Rồi sinh con. Rồi phải tìm thầy dạy học cho con... Và mỗi lúc một xa mục đích ban đầu.

Trong cuộc sống của ta cũng vậy, trên đường đời, việc này xảy tới rồi việc kia xảy tới, xem chừng rất hợp lí. Để rồi ta bị cái vòng cuộc sống cuốn trôi đi, mà quên đi mất mục đích, ước mơ ban đầu.

Thursday, 28 May 2015

Chớ vội Phán xét ngay


Bác nông dân nọ có bốn người con trai. Bởi muốn các con ghi nhớ một điều rằng, trong cuộc sống chớ vội phán xét ngay, thế là bác liền bảo các con của mình lần lượt đi tìm một cây lê mọc ở rất xa. Người con cả ra đi vào mùa đông, người thứ hai mùa xuân, người thứ ba mùa hạ và người con út đi vào mùa thu. Khi tất cả đều đã ra đi và trở về, bác gọi các con lại và nói xem mình đã trông thấy gì.
Người con cả đáp rằng cái cây đó rất xấu và cong queo. Người con thứ hai phản đối ý kiến của anh mình nói rằng cái cây đó đang đâm chồi nảy lộc. Người con thứ ba cũng không đồng tình với hai anh, nói rằng cây nở đầy hoa và tỏa ngát hương thơm, và rằng đó là cảnh tượng lộng lẫy nhất mà mình từng thấy. Người con út phản đối cả ba anh, nói rằng cây đầy quả chín rụng, tràn đầy nhựa sống. Người cha liền giải thích cho các con rằng tất cả các con đều đúng, bởi mỗi người chỉ nhìn thấy cây lê đó trong một mùa mà thôi.

Bác bảo rằng ta chớ nên phán xét một cái cây, một con người nếu chỉ thấy trong một mùa, một đoạn đời, và rằng bản chất của họ, cũng như niềm vui và tình yêu đến từ cuộc đời này chỉ có thể đo được vào lúc cuối cùng, khi mọi mùa đều qua. Nếu ta bỏ cuộc lúc mùa đông, ta sẽ lỡ mất mùa xuân hứa hẹn, mùa hè tươi đẹp và lộng lẫy mùa thu.
                                                
Ghim vào lòng: Chớ để cho nỗi đau một mùa đánh hỏng đi niềm vui của những mùa khác. Chớ phán xét cuộc đời vì gặp chút khó khăn. Vượt qua gian khó và những tháng ngày tươi đẹp rồi sẽ tới. 

- Diệu Mai chuyển ngữ -

Thursday, 21 May 2015

Khoảng lặng Tâm hồn


Một lần nọ, có một người nông dân bị mất một chiếc đồng hồ trong kho thóc. Đó không phải là một cái đồng hồ thông thường bởi nó còn có giá trị về mặt tình cảm đối với ông. Sau một thời gian dài tìm kiếm vô vọng, người nông dân phải nhờ sự trợ giúp của những đứa trẻ đang chơi bên ngoài.
Ông hứa nếu ai tìm được chiếc đồng hồ bị mất sẽ được thưởng.
Nghe thấy vậy, đám trẻ con nhanh chân chạy xung quanh kho thóc tìm kiếm. Chúng đi khắp nơi, lục tìm ở mọi chỗ, từ nơi chứa thóc đến tận cả chỗ cho gia súc ăn nhưng vẫn không thấy. Chỉ đến khi ông đề nghị bọn trẻ dừng việc tìm kiếm thì có bé trai chạy tới và yêu cầu ông cho nó một cơ hội nữa. Người nông dân nhìn đứa bé và nghĩ: 'Tại sao lại không chứ? Sau tất cả thì cậu bé này có vẻ khá chân thành'.
Ông dẫn cậu bé trở lại trong kho. Một lúc sau, cậu đã chạy ra và trên tay là chiếc đồng hồ của ông. Người nông dân rất hạnh phúc và ngạc nhiên, ông hỏi cậu bé: 'Làm cách nào mà cháu có được nó, sau khi tất cả các bạn khác đã từ bỏ?'.
Cậu bé đáp: 'Cháu không làm gì cả và chỉ ngồi im một chỗ để lắng nghe. Trong im lặng, cháu thấy tiếng kim đồng hồ chạy và theo đó cháu tìm ra nó'.
Đúng vậy, sự tĩnh lặng trong tâm hồn có thể sẽ tốt hơn so với một trí não luôn hoạt động.
Hãy để cho tâm trí của bạn những phút giây nghỉ ngơi, thư giãn hàng ngày.
Và hãy xem, sự hiệu quả mà nó đem lại khi giúp bạn xây dựng cuộc sống hằng mong đợi của mình.
Theo Đất Việt

Monday, 18 May 2015

Gánh nặng Nỗi lo


Một thiên thần đang dạo chơi trên đường thì nhìn thấy một người đàn ông đang mang trên lưng chiếc túi rất nặng. Thiên thần tò mò hỏi thăm:
  • Này anh bạn, anh đang mang vật gì mà nặng nhọc thế?
  • Tôi đang mang những lo lắng của tôi! – Người đàn ông thở không ra hơi
  • Anh có thể đặt chiếc túi xuống để tôi nhìn thấy những lo lắng của anh được không? – Thiên thần đề nghị
Người đàn ông đặt chiếc túi xuống; Thiên thần nhìn vào nhưng chẳng thấy gì cả: Đó chỉ là chiếc túi rỗng!
Thiên thần thốt lên:
  • Anh bạn, tôi không hề thấy có nỗi lo nào đang đè lên anh cả. Hãy quẳng chiếc túi ấy đi!
  • Không thể nào, ngày nào tôi cũng rất lo lắng. Tôi lo cho những điều đã xảy ra hôm qua, và những điều sẽ đến vào ngày mai. – Người đàn ông nói.
Bạn thấy đấy, nỗi lo chỉ thật sự trở thành gánh nặng khi bạn không hề biết đó là nỗi lo gì và cứ băn khoăn nó đã qua hay sẽ đến. Hãy vui sống vì ngày hôm nay bạn nhé!
(Sưu tầm)

Monday, 26 January 2015

Ba điều ước cuối cùng của Alexander Đại đế

Những ý nguyện cuối cùng của ngài Alexander Đại Đế khi sắp chết. Ngài Alexander Đại Đế cho triệu tập các quan trong triều đình đến để truyền đạt ba ý nguyện cuối cùng của mình. Ngài phán rằng:
1 – Quan tài của ngài phải  do chính các vị ngự y (bác sĩ) giỏi nhất của thời đó khiêng đi.
2 – Tất cả các báu vật của ngài (vàng, bạc, châu báu…) phải được rải dọc theo con đường dẫn đến ngôi mộ của ngài, và …
3 – Đôi bàn tay của ngài phải được để lắc lư, đong đưa trên không, thò ra khỏi quan tài để cho mọi người đều thấy.
Một vị cận thần của ngài, rất đỗi ngạc nhiên về những điều yêu cầu kỳ lạ này, và đã hỏi ngài Alexander lý do “Tại sao nhà vua lại muốn như thế ?”
Ngài Alexander đã giải thích như sau:
1 – Ta muốn chính các vị ngự y (bác sĩ) giỏi nhất phải khiêng quan tài của ta để cho mọi người thấy rằng. Một khi phải đối mặt với cái chết, thì chính họ là “Những người tài giỏi nhất” cũng không có tài nào để cứu chữa.
2 – Ta muốn châu báu của ta được vung vãi trên mặt đất để cho mọi người thấy rằng “Của cải, tài sản mà ta gom góp được ở trên thế gian này, sẽ mãi mãi ở lại trên thế gian này” (một khi ta nhắm mắt xuôi tay từ giã cỏi đời).
3 – Ta muốn bàn tay của ta đong đưa trên không, để cho mọi người thấy rằng “Chúng ta đến với thế giới này,với hai bàn tay trắng và khi rời khỏi thế giới này,chúng ta cũng chỉ có hai bàn tay trắng”.
Đến cuối cuộc đời, chúng ta sẽ nghiệm ra rằng, kho tàng quý giá nhất trên cuộc đời này là “TÌNH YÊU THƯƠNG”
(Sưu tầm)

THAY ĐỔI - truyện 5 chương ngắn

  CHƯƠNG 1 Tôi đi trên một con phố. Trên vỉa hè có một hố sâu. Tôi không nhìn thấy và rơi xuống. Tôi chật vật mãi mới thoát ra được. Đó là ...